FXCE Official
Moderator
-
FXCE Official
Bài viết được thành viên Dao Quoc Binh thuộc FXCE Crypto biên tập từ " Optimistic About Metis" của Rasheed Saleuddin với mục đích cung cấp thông tin và phi lợi nhuận. Chúng tôi không khuyến nghị đầu tư và không chịu trách nhiệm cho các quyết định đầu tư liên quan đến nội dung bài dịch.
Ethereum ngày càng trở nên đắt đỏ trong giao dịch. Suốt 18 tháng qua, phí của Ethereum đã tăng trung bình 50 lần từ khoảng 0,10 USD lên 5 USD (Tham khảo). Và mức giá 5 USD này được chào đón sau giai đoạn phí trung bình tăng vọt lên gần 70 USD trong cơn sốt đầu cơ gần nhất trong quý 2.
Từ góc độ vĩ mô, phí cao không phải hoàn toàn là xấu. Chúng thể hiện nhu cầu người dùng với block space (không gian khối) (*). Do đó, sự tăng phí giao dịch của mạng lưới đang đổi lại các tiện ích và giá trị lớn hơn. Nhiều người cũng chấp nhận rằng phí gas cao là chi phí cần thiết để bảo mật các giao dịch có giá trị cao. Nhưng tổng phí lại tăng lên, điều này sẽ làm giảm số lượng người dùng và use cases khả dụng. Với việc ra mắt các ứng dụng mới hàng ngày trên Ethereum (Tham khảo) , tỷ lệ sử dụng mạng ở mức gần hết công suất và các nâng cấp mở rộng quy mô Eth2 vẫn đang được phát triển, dường như không có bất kỳ sự giảm tải ngắn hạn nào đối với layer cơ sở của Ethereum.
(*) Block space: Không gian block của chuỗi ETH. Nhu cầu của user sử dụng số lượng block eth tăng cao.
Đó là lúc các giải pháp mở rộng quy mô lớp hai (layer two) xuất hiện (Tham khảo). Chúng được tạo ra nhằm mục đích giải quyết Vấn đề tắc nghẽn của Ethereum với mức phí giảm đáng kể nhờ vào các thỏa hiệp tối thiểu về bảo mật. Giải pháp optimistic rollups (*) (Tham khảo), sẽ tổng hợp (bundles) và xâu chuỗi (sequences) một loạt các giao dịch (transactions) trên một layer của Ethereum, và sau đó gửi lại chúng dưới dạng một giao dịch duy nhất đến chuỗi chính layer 1 của Ethereum. Bằng cách thực hiện tính toán tại một lớp khác trên Ethereum (do đó gọi là “layer 2”), chúng được kỳ vọng sẽ có thông lượng mạng cao hơn khoảng 100 lần so với chuỗi bên dưới (Tham khảo).
(*) Optimistic rollups: Optimistic Rollups sẽ tổng hợp một nhóm các giao dịch riêng lẻ trên mạng lưới Ethereum thành một giao dịch duy nhất; giao dịch này sau đó sẽ được đưa ra khỏi blockchain chính để xử lý ở trên một sidechain layer 2 và gửi lại dữ liệu về cho Ethereum. Cơ chế này sẽ giúp giảm tải khối lượng giao dịch mà Ethereum đang phải xử lý, từ đó giảm phí gas giao dịch.
Trong khi Optimistic Ethereum và Arbitrum’s Arbitrum One sắp được ra mắt đã thu hút nhiều sự quan tâm và mong đợi từ báo giới và cộng đồng, đây chỉ là hai trong số các giải pháp tổng hợp sắp hoàn thành.
Metis là một trong những giải pháp như thế. Đây là một nhánh của Optimism nhằm mục đích nâng cao lợi thế cạnh tranh trước các đối thủ hiện nay. Metis tìm cách cung cấp các lợi ích tiêu chuẩn của optimistic rollups như phí thấp (<1 USD), tốc độ cao (< 1s) và các bảo mật tài chính theo các cấp độ Ethereum. Họ cũng có kế hoạch tạo nên sự khác biệt cho nền tảng của mình bằng cách cung cấp lưu trữ dữ liệu gốc, rút tiền nhanh hơn cho chuỗi chính Ethereum layer 1 và cải thiện khả năng sử dụng cho các nhà cung cấp DApp.
Giải pháp Rollups (*) và Chuỗi phụ Side Chains (*)
(*) Giải pháp Rollups: Giải pháp này được gọi là “Rollups” vì nó tổng hợp các giao dịch và xếp chúng thành một khối duy nhất. Rollups cho phép hàng nghìn giao dịch được nhóm lại trong một khối tổng hợp. Điều này giúp mạng Ethereum có thể giải phóng khỏi một số tắc nghẽn và làm cho các giao dịch nhanh cũng như ít tốn kém hơn.
(*) Chuỗi phụ (Side Chains): Là các blockchain độc lập và được xem là sự kết hợp của Layer 2 và Layer 1. Do các giải pháp Layer 2 phụ thuộc vào tính bảo mật của chuỗi chính. Một Sidechain sẽ có các thuộc tính bảo mật riêng. Nó cũng sử dụng các cơ chế đồng thuận của riêng mình để xử lý các giao dịch.
Cuộc chiến mở rộng quy mô đã bị thống trị bởi side chains và các layer 1 khác cho đến nay, và Polygon có được sức hút vượt trội trong số những tên tuổi lớn nhất trong DeFi và Metaverse. Sushiswap, Aave và Curve đều đã mở rộng sang Polygon, SushiSwap cũng được triển khai trên một số chuỗi khác. Axie Infinity hiện chạy trên một sidechain được xây dựng tùy chỉnh (custom-built sidechain) có tên là Ronin để cách ly các trò chơi kiếm tiền (play-to-earn game) phổ biến khỏi những biến động phí đắt đỏ của Ethereum. Nhà phát triển NBA Top Shot và Crypto Kitties, Dapper Labs đã khởi chạy layer 1 độc lập để thoát khỏi các khoản phí khét tiếng của Ethereum. Hệ sinh thái DeFi cũng đã phát triển trên các mạng mới hơn như Solana, Terra, Binance Smart Chain (BSC) và Avalanche.
Mỗi người đã được hưởng lợi trực tiếp từ việc tăng phí Ethereum, được chỉ ra bởi sự gia tăng gần đây trong hoạt động on-chain và tổng giá trị được khóa (Total value locked -TVL).
Vấn đề lớn nhất với các side chain và layer 1 là chúng có nhiều attack surface khác nhau (thường liên quan đến mức độ phân quyền đã bị xem nhẹ) và đảm bảo an ninh tài chính thấp hơn Ethereum (Tham khảo). Do đó, các giải pháp mở rộng quy mô để giảm thiểu bất kỳ sự đánh đổi nào về bảo mật và phân quyền đã trở thành trọng tâm trong cộng đồng Ethereum.
Người sáng lập Ethereum, Vitalik Buterin (Tham khảo) đã bắt đầu ủng hộ " rollups " như là cách để mở rộng Ethereum cùng tính năng bảo mật trong chu kỳ tăng trưởng tiếp theo vào tháng 9 năm 2018. Rollups là các lớp thực thi tồn tại bên trên mạng layer 1. Nó thực thi loạt xử lý (batch) và xâu chuỗi (sequence) các giao dịch trong môi trường off-chain (ngoài chuỗi) trước khi nhúng lại vào chuỗi khối cơ bản. Vì lớp cơ sở đóng vai trò như “người phán xử - arbiter of truth”, nên các rollup được xây dựng trên đó đã "kế thừa các thuộc tính bảo mật của blockchain mà chúng được tạo nên”.
Rollups có hai dạng: zero-knowledge (ZK) rollups và optimistic rollups.
ZK rollups sử dụng các bằng chứng phức tạp để xác nhận gần như tức thì trạng thái cuối cùng trên layer 2 đến Ethereum layer 1. Một số bản ZK rollups dành riêng cho ứng dụng đặc biệt đã được phát hành, bao gồm Loopring DEX, Immutable X (Gods Unchained) và protocol phái sinh dYdX.
Optimistic rollups giả định “một cách lạc quan” rằng tất cả các giao dịch đều hợp lệ. Tuy nhiên, xác nhận giao dịch trên mạng chính (main chain) phải thông qua giai đoạn thử thách nhằm ngăn chặn gian lận. Việc rút các token từ một Optimistic Ethereum DApp thường phải có độ trễ nhất định (liên quan đến các ZK rollup) nhằm cho phép việc kiểm tra được diễn ra. Nơi mà các optimistic rollups trước đây khác với các bản sao zero-knowledge ở khả năng sẵn sàng hỗ trợ các môi trường ứng dụng tương thích với EVM (EVM- compatible). Khả năng tương thích EVM cho phép các nhà phát triển chuyển qua các hợp đồng Solidity hiện có của họ từ Ethereum với những thay đổi tối thiểu. Dường như khoảng cách giữa optimistic và ZK rollup đang thu hẹp lại, như Matter Labs’ ZKSync và Starkware đang rút ngắn khả năng tính toán với EVM trong các ZK rollup.
Metis Layer 2
Metis sẽ là một thành viên mới trong gia đình optimistic rollups tương thích với EVM được ra mắt trong những tháng tới. Nó sử dụng một nhánh của Optimism’s Optimism Virtual Machine (OVM) gọi là Metis Virtual Machine (MVM). MVM mang hơi hướng của OVM trong thực thi hàm và code.
Giống như các thiết kế optimistic rollup khác, Metis dựa vào các thành phần mạng theo thứ tự để ra lệnh và thực thi loạt giao dịch trước khi gửi các thay đổi trạng thái MVM sau cùng cho Ethereum. Tuy nhiên, không như những loại tiền điện tử khác, Metis dự định ra mắt các multiple sequencer được gộp lại thành các thực thể on-chain gọi là Decentralized Autonomous Companies (DACs). Với mỗi block Metis, protocol sẽ chọn ngẫu nhiên một chuỗi từ chuỗi DAC để đẩy các thay đổi trạng thái đến Ethereum. Quy trình lựa chọn và nhóm các chuỗi Metis tương phản với cách tiếp cận trình tự đơn lẻ (single-sequencer approach) mà Arbitrum và Optimism sử dụng ban đầu. Tuy nhiên, cả Arbitrum và Optimism đều đã hoạch định lộ trình dân chủ hóa cách thức lựa chọn sequencer.
Các DAC về cơ bản cũng là các DAO. Metis đại diện cho các tổ chức on-chain cho phép người dùng cộng tác và thực hiện một số hành động mạng nhất định (Tham khảo), chẳng hạn như chạy sequencer pool (như mô tả ở trên) hoặc chạy một ứng dụng mới trên MVM. Để đủ điều kiện xác nhận một loạt giao dịch, các sequencer phải stake METIS nhiều hơn Dynamic Bond Threshold (DBT), đóng vai trò như một cơ chế cần thiết để ngăn chặn các sequencer khỏi các hành vi gian lận độc hại và vô tâm (Tham khảo).
Người dùng cũng có thể tham gia như một “Kiểm lâm - Ranger” để kiểm soát hoạt động sequencer. Ranger lấy mẫu một số block và xác thực trạng thái gốc để đổi lấy phần thưởng token METIS. Khi thử thách hoàn thành (được gọi là bằng chứng gian lận) dẫn đến việc cắt sequencer. Những tài sản bị cắt ra này được chuyển cho Ranger, người khởi xướng quá trình tranh chấp. Trái lại, các thử thách thất bại lặp lại nhiều lần của Ranger có thể bị hệ thống cấm (ban).
Nguồn: Metis Whitepaper.
Quá trình thử thách rất quan trọng đối với chức năng của optimistic rollups. Optimistic rollups được thiết kế một cách “lạc quan”, khi giả định rằng không có giao dịch gian lận nào diễn ra. Về cơ bản, họ sử dụng cách tiếp cận “vô tội cho đến khi được chứng minh là có tội - innocent until proven guilty” phụ thuộc vào hệ thống “kiểm tra và số dư - checks and balances” để ngăn chặn gian lận và đảm bảo Ethereum luôn là trọng tài của sự thật. Tất cả các phát hiện gian lận trên Metis đều xảy ra nhờ hoạt động kiểm tra sequencer của Rangers và thách thức bất kỳ hành vi sai trái nào.
Trong khi Metis sử dụng một nhánh của Optimism’s OVM, nó có một vài đặc điểm nhằm cải thiện thiết kế ban đầu. Các tính năng này bao gồm:
1. Tích hợp IPFS - Một lựa chọn lưu trữ dữ liệu rẻ hơn so với sử dụng giải pháp thứ cấp
2. Xác thực nhanh hơn khi đưa ra các thay đổi trạng thái đối với Ethereum nhờ đóng góp của Rangers
3. Phần mềm trung gian Polis (Polis Middleware) - Cung cấp các thư viện mẫu và hỗ trợ nhằm cải tiến môi trường phát triển hướng mục tiêu đến các nhà phát triển mới làm quen với tiền điện tử
4. Lớp thực thi đa tầng (Multiple Execution Layers) - Metis sẽ cho phép các DAC tạo ra các môi trường thực thi MVM mới để mở rộng dung lượng khi nhu cầu block space tăng lên
5. Môi trường Permissioned - DAC có thể tùy chỉnh các điều khiển truy cập cho các phiên bản MVM của riêng mình
Tích hợp IPFS
Lưu trữ dữ liệu trên Ethereum và Bitcoin rất tốn kém do giới hạn block space. Metis bảo lưu không gian trên chuỗi bằng cách cho phép mỗi DAC chạy một phiên bản MVM riêng biệt với lớp lưu trữ tích hợp sử dụng Interplanetary File Service (IPFS). Người dùng và nhà phát triển có thể truy cập nội dung từ Metis thông qua trình phân giải IPFS của MVM.
Nguồn: Metis Whitepaper.
Lưu trữ và truy cập dữ liệu theo cách này có hai lợi ích tiềm năng. Đầu tiên, dữ liệu có thể được mã hóa trong Metis protocol, cho phép người dùng lưu trữ thông tin bí mật. Thứ hai, IPFS Resolver cho phép các ứng dụng Metis truy cập và liên kết trực tiếp đến dữ liệu được lưu trữ, chẳng hạn như tác phẩm nghệ thuật hoặc âm nhạc dưới nền tảng NFT.
Xác thực nhanh hơn với Rangers
Nhược điểm chính của optimistic rollups là thời gian chờ đợi xác nhận rút tiền trở lại Ethereum layer 1 (hoặc thậm chí là layer 2 khác). Thời gian chờ đợi này thường được tính bằng ngày. Arbitrum dự đoán rằng việc rút tiền có thể mất khoảng ba ngày, trong khi thời gian dự kiến của Optimism là khoảng một tuần. Thời gian chờ đợi này rất cần thiết cho quá trình phát hiện gian lận, nhưng chúng cũng có thể làm giảm tính linh hoạt cho người dùng và tạo ra xung đột khi cố gắng chuyển tiền sang Ethereum hoặc giữa các L2 khác nhau.
Hệ thống phát hiện gian lận multi-party (đa bên) của Metis có thể cho phép rút ngắn thời gian xác nhận thay đổi trạng thái từ vài ngày xuống còn vài giờ. Như đã đề cập ở trên, Metis chọn ngẫu nhiên một sequencer mới cho mỗi block và dựa vào một nhóm nodes (Rangers) để theo dõi hoạt động của sequencer. Các sequencer được khuyến khích tài chính để tránh đưa ra các thay đổi trạng thái gian lận (bị bắt dẫn đến mất các METIS đã stake) và Rangers nhận được phần thưởng tài chính nhờ phát hiện được gian lận. Trong khi các hệ thống single-party sequencer như Optimisms và Arbitrum (khi khởi chạy) sẽ cần thời gian rút tiền tính theo ngày, đội ngũ Metis khẳng định hệ thống kiểm tra và số dư multiple layers của họ cho phép thời gian rút tiền chỉ còn khoảng sáu giờ. Metis phải đảm bảo có được một bộ sequencers và Rangers mạnh mẽ khi ra mắt để đạt được mục tiêu là thời gian chờ rút tiền chỉ còn sáu giờ.
Polis
Một yếu tố quan trọng có thể ảnh hưởng đến việc áp dụng L2 là thách thức trong việc chuyển các hợp đồng hiện có từ Ethereum sang một layer mới. Nếu các nền tảng yêu cầu dự án phải thích nghi đáng kể với các hợp đồng hiện tại, có thể trở nên khan hiếm khả năng ứng dụng, vì đa số dự án được phát triển trong môi trường hạn chế kiểm tra và đại tu codebase. Thay vào đó, các nhà phát triển sẽ nhắm đến các mục tiêu quen thuộc, nghĩa là phải tối đa hóa khả năng tương thích với EVM.
Metis đã áp dụng một thiết kế tương thích với EVM. Họ tiếp tục tìm cách chuyển đổi dễ dàng sang layer 2 cho các ứng dụng Ethereum hiện có thông qua phần mềm trung gian Polis (Polis middleware). Nhóm Metis dự định Polis sẽ giúp thu hẹp khoảng cách từ Web2 đến Web3 (Tham khảo) bằng cách cung cấp cho các nhà phát triển các mẫu “low-to-no-code” để triển khai và quản lý các ứng dụng mới. Sự kết hợp giữa phí thấp và sự thân thiện với developers sẽ mang lại môi trường màu mỡ cho các thử nghiệm và đổi mới, là những yếu tố quan trọng để xây dựng một hệ sinh thái ứng dụng từ đầu.
Mặc dù áp dụng EVM là một bước đột phá tuyệt vời (ngày càng tăng, và cần thiết), chiến lược này cũng có nghĩa là Metis sẽ trực tiếp cạnh tranh với mọi giải pháp EVM tương thích hệ thống layer 1 và giải pháp layer 2. Sử dụng một VM khác là một canh bạc vì thu hút sự quan tâm của nhà phát triển đối với một ngôn ngữ và bộ công cụ mới là một nỗ lực lớn và thường tốn kém. Nhưng canh bạc đó có thể rất đáng tiền để thực hiện nếu VM mới đủ sức hút vì các nhà phát triển không thể dễ dàng chuyển sang một giải pháp mới và hào nhoáng hơn. Việc cá nhân hóa sản phẩm tạo nên chất keo kết dính ngăn chặn sự chảy máu nhân lực hoặc tính thanh khoản sang các nền tảng cạnh tranh.
Tokenomics
Token METIS lần đầu tiên được phân phối trong Initial DEX Offering (IDO) thông qua PAID Network và Initial Exchange Offering (IEO) với Gate.io vào ngày 13 tháng 5 năm 2021. Sau khi ra mắt với giá IDO là 5 USD, METIS đã nhanh chóng phi lên 8 USD. Sau đó, giá giữ vững trong ba tháng quanh mức 5 USD, trước khi tăng lên mức cao mới trong bối cảnh thị trường phục hồi gần đây.
Token METIS có ba trường hợp sử dụng chính trong nền tảng Metis ’L2:
1. Phí giao dịch - Người dùng thanh toán phí giao dịch trong METIS
2. Staking các DAC - những người đóng góp DAC phải stake METIS để trở thành một sequencer, cộng tác hoặc khởi chạy một layer MVM mới
3. Khuyến khích - Các DAC và Ranger nhận được phần thưởng của METIS vì đã đóng góp và chiến thắng các thử thách gian lận. Những người tham gia này cũng có thể mất METIS nếu họ bị phát hiện hành động sai các quy tắc của protocol.
Metis đã phân bổ 49,3% (hay 4,93 triệu METIS) cho các sáng kiến cộng đồng (airdrop và khuyến khích sự tham gia của cộng đồng), các thị trường như trao đổi phi tập trung để có đủ thanh khoản giao dịch, những người đóng góp sớm (nhà đầu tư công và tư), đội nhóm và Quỹ MetisLab. Các đội nhóm, quỹ và nhà đầu tư cá nhân phải tuân theo lịch trình kiểm tra 12-18 tháng, khiến METIS có tỷ lệ thả nổi tương đối thấp ngay từ đầu.
Dự án đã dành 5,07 triệu tokens còn lại cho chương trình ưu đãi mười năm để thưởng cho những người tham gia mạng lưới như sequencers, Rangers và các thành viên cộng đồng để xử lý các giao dịch (một quy trình mà Metis gọi là “Transaction Mining”).
Lịch trình lạm phát của METIS là động lực để cung cấp bảo mật và tránh gian lận. Nhưng một khía cạnh thường bị bỏ qua của token là tác động của nó đối với tốc độ đổi mới và áp dụng của một dự án. Token incentives, ngay cả khi lạm phát, vẫn có thể khởi động hệ sinh thái và tăng trưởng lượng người dùng, đã thể hiện qua sự gia tăng nhanh chóng của Polygon. Đội ngũ Polygon đã sử dụng nguồn cung MATIC của mình để thưởng cho người xác nhận và các nhà cung cấp thanh khoản sau này trên Aave và Curve.
Toàn cảnh Layer 2 sẽ là một thực thể có tính cạnh tranh cao và các dự án có thể vượt khỏi tầm nhìn của công chúng (và rất khả thi) sử dụng mọi lợi thế theo ý mình. Sở hữu token có thể là một lợi thế cạnh tranh vì Arbitrum, Optimism và StarkWare đều chưa chia sẻ chi tiết rõ ràng về token gốc của họ (đến hiện tại vẫn chưa).
Tiến độ dự án
Với việc Optimistic Ethereum (OE) và Arbitrum sắp ra mắt đầy đủ, Metis hiện đang ở đâu? Metis đang lên kế hoạch cho một testnet cộng đồng vào tháng 9 và bản phát hành mainnet vào tháng 10.
Bối cảnh cạnh tranh của layer 2 đang phát triển nhanh chóng. Uniswap v3 đã vận hành trên OE và sẽ triển khai tới Aribitrum. Seasoned DeFi veteran Synthetix đã chạy trên OE từ cuối tháng Bảy. Arbitrum cho biết họ đã cấp cho “hơn 400 dự án mainnet và hàng chục dự án đã hoàn tất triển khai”. Optimism và Arbitrum đã đi đầu trong triển khai ứng dụng, Metis sẽ cần nhanh chóng đưa vào hệ sinh thái của mình khi ra mắt. MetisSwap, một nhánh của Uniswap v2, đang hoạt động trên Metis ’testnet và WOWswap đã cam kết có thêm một leveraged token trading protocol. Mặc dù mọi mạng lưới mới đều yêu cầu các yếu tố tài chính đầu vào, nhưng sự hiện diện trên thị trường của Metis khác xa so với hoạt động phát triển từng thấy trên Optimism và Arbitrum.
Metis đang lên kế hoạch thúc đẩy hệ sinh thái ứng dụng của mình thông qua Chương trình Phát triển Hệ sinh thái (Ecosystem Development Program). Các nhà phát triển phải có một dự án đang hoạt động, một cộng đồng sẵn có hoặc có ý tưởng cùng đội ngũ tuyệt vời để giành được tài trợ cho hệ sinh thái. Metis sẽ tạo điều kiện giới thiệu các VC, hỗ trợ kỹ thuật, xây dựng thị trường và phát triển cộng đồng, cũng như thưởng METIS cho những ứng viên thành công.
Roadmap
Cùng với sự phát triển liên tục của các công cụ phần mềm trung gian Polis (Polis middleware tools), Metis tập trung vào việc khuyến khích phát triển hệ sinh thái cho việc hoàn tất ra mắt mainnet vào tháng 10. Metis đã thiết lập các mối quan hệ với DeFi, cơ sở hạ tầng và các đối token launchpad, bao gồm Trustee Wallet, OroPocket OpenDeFi, PARSIQ, PAID Network và nhiều đối tác khác.
Thử thách phía trước
Hiệu ứng mạng lưới là động lực chi phối khối lượng on-chain, và các đối thủ cạnh tranh tầm cỡ như Optimism và Arbitrum cũng như layer 1 ví dụ như Solana và Terra có hệ sinh thái đang phát triển, với các dự án DeFi và Metaverse quy mô lớn đã được thiết lập hoặc dần thành hình. ZK rollups cũng đang phát triển nhanh chóng từ các giải pháp DApp cụ thể ban đầu như Loopring và dYdX. Immutable X có kế hoạch hỗ trợ cuộc chơi thứ hai, đưa nó tiến gần hơn mục tiêu trở thành một hệ sinh thái metaverse. zkSync và StarkWare có ZK-rollups tương thích EVM (EVM- compatible ZK-rollups) trong testnet.
Sự cạnh tranh chỉ đang bắt đầu, và Metis phải thực hiện cam kết của mình là cải thiện trải nghiệm optimistic rollup thông qua các cải tiến về tính linh hoạt và trải nghiệm người dùng được đề xuất. Nếu Metis có thể thúc đẩy một hệ sinh thái ứng dụng thông qua chương trình token incentives, nó có thể tạo ra các hiệu ứng mạng mà bất kỳ layer 2 nào cũng cần để tồn tại.
Các nhà phát triển và người dùng đang chuyển từ web2 sang web3 và sẽ chỉ tăng tốc từ đây, khi thị trường đủ lớn để mọi dự án có thể tiến hành. Đến lúc các dự án và cơ sở hạ tầng đủ sức tạo sự cách biệt với các đối thủ cạnh tranh gần nhất thì họ sẽ trở thành những người tiên phong mở ra ranh giới tiếp theo của Internet.
Tham gia thảo luận về Cryptocurrency tại nhóm FXCE Crypto.
Ethereum ngày càng trở nên đắt đỏ trong giao dịch. Suốt 18 tháng qua, phí của Ethereum đã tăng trung bình 50 lần từ khoảng 0,10 USD lên 5 USD (Tham khảo). Và mức giá 5 USD này được chào đón sau giai đoạn phí trung bình tăng vọt lên gần 70 USD trong cơn sốt đầu cơ gần nhất trong quý 2.
Từ góc độ vĩ mô, phí cao không phải hoàn toàn là xấu. Chúng thể hiện nhu cầu người dùng với block space (không gian khối) (*). Do đó, sự tăng phí giao dịch của mạng lưới đang đổi lại các tiện ích và giá trị lớn hơn. Nhiều người cũng chấp nhận rằng phí gas cao là chi phí cần thiết để bảo mật các giao dịch có giá trị cao. Nhưng tổng phí lại tăng lên, điều này sẽ làm giảm số lượng người dùng và use cases khả dụng. Với việc ra mắt các ứng dụng mới hàng ngày trên Ethereum (Tham khảo) , tỷ lệ sử dụng mạng ở mức gần hết công suất và các nâng cấp mở rộng quy mô Eth2 vẫn đang được phát triển, dường như không có bất kỳ sự giảm tải ngắn hạn nào đối với layer cơ sở của Ethereum.
(*) Block space: Không gian block của chuỗi ETH. Nhu cầu của user sử dụng số lượng block eth tăng cao.
Đó là lúc các giải pháp mở rộng quy mô lớp hai (layer two) xuất hiện (Tham khảo). Chúng được tạo ra nhằm mục đích giải quyết Vấn đề tắc nghẽn của Ethereum với mức phí giảm đáng kể nhờ vào các thỏa hiệp tối thiểu về bảo mật. Giải pháp optimistic rollups (*) (Tham khảo), sẽ tổng hợp (bundles) và xâu chuỗi (sequences) một loạt các giao dịch (transactions) trên một layer của Ethereum, và sau đó gửi lại chúng dưới dạng một giao dịch duy nhất đến chuỗi chính layer 1 của Ethereum. Bằng cách thực hiện tính toán tại một lớp khác trên Ethereum (do đó gọi là “layer 2”), chúng được kỳ vọng sẽ có thông lượng mạng cao hơn khoảng 100 lần so với chuỗi bên dưới (Tham khảo).
(*) Optimistic rollups: Optimistic Rollups sẽ tổng hợp một nhóm các giao dịch riêng lẻ trên mạng lưới Ethereum thành một giao dịch duy nhất; giao dịch này sau đó sẽ được đưa ra khỏi blockchain chính để xử lý ở trên một sidechain layer 2 và gửi lại dữ liệu về cho Ethereum. Cơ chế này sẽ giúp giảm tải khối lượng giao dịch mà Ethereum đang phải xử lý, từ đó giảm phí gas giao dịch.
Trong khi Optimistic Ethereum và Arbitrum’s Arbitrum One sắp được ra mắt đã thu hút nhiều sự quan tâm và mong đợi từ báo giới và cộng đồng, đây chỉ là hai trong số các giải pháp tổng hợp sắp hoàn thành.
Metis là một trong những giải pháp như thế. Đây là một nhánh của Optimism nhằm mục đích nâng cao lợi thế cạnh tranh trước các đối thủ hiện nay. Metis tìm cách cung cấp các lợi ích tiêu chuẩn của optimistic rollups như phí thấp (<1 USD), tốc độ cao (< 1s) và các bảo mật tài chính theo các cấp độ Ethereum. Họ cũng có kế hoạch tạo nên sự khác biệt cho nền tảng của mình bằng cách cung cấp lưu trữ dữ liệu gốc, rút tiền nhanh hơn cho chuỗi chính Ethereum layer 1 và cải thiện khả năng sử dụng cho các nhà cung cấp DApp.
Giải pháp Rollups (*) và Chuỗi phụ Side Chains (*)
(*) Giải pháp Rollups: Giải pháp này được gọi là “Rollups” vì nó tổng hợp các giao dịch và xếp chúng thành một khối duy nhất. Rollups cho phép hàng nghìn giao dịch được nhóm lại trong một khối tổng hợp. Điều này giúp mạng Ethereum có thể giải phóng khỏi một số tắc nghẽn và làm cho các giao dịch nhanh cũng như ít tốn kém hơn.
(*) Chuỗi phụ (Side Chains): Là các blockchain độc lập và được xem là sự kết hợp của Layer 2 và Layer 1. Do các giải pháp Layer 2 phụ thuộc vào tính bảo mật của chuỗi chính. Một Sidechain sẽ có các thuộc tính bảo mật riêng. Nó cũng sử dụng các cơ chế đồng thuận của riêng mình để xử lý các giao dịch.
Cuộc chiến mở rộng quy mô đã bị thống trị bởi side chains và các layer 1 khác cho đến nay, và Polygon có được sức hút vượt trội trong số những tên tuổi lớn nhất trong DeFi và Metaverse. Sushiswap, Aave và Curve đều đã mở rộng sang Polygon, SushiSwap cũng được triển khai trên một số chuỗi khác. Axie Infinity hiện chạy trên một sidechain được xây dựng tùy chỉnh (custom-built sidechain) có tên là Ronin để cách ly các trò chơi kiếm tiền (play-to-earn game) phổ biến khỏi những biến động phí đắt đỏ của Ethereum. Nhà phát triển NBA Top Shot và Crypto Kitties, Dapper Labs đã khởi chạy layer 1 độc lập để thoát khỏi các khoản phí khét tiếng của Ethereum. Hệ sinh thái DeFi cũng đã phát triển trên các mạng mới hơn như Solana, Terra, Binance Smart Chain (BSC) và Avalanche.
Mỗi người đã được hưởng lợi trực tiếp từ việc tăng phí Ethereum, được chỉ ra bởi sự gia tăng gần đây trong hoạt động on-chain và tổng giá trị được khóa (Total value locked -TVL).
Vấn đề lớn nhất với các side chain và layer 1 là chúng có nhiều attack surface khác nhau (thường liên quan đến mức độ phân quyền đã bị xem nhẹ) và đảm bảo an ninh tài chính thấp hơn Ethereum (Tham khảo). Do đó, các giải pháp mở rộng quy mô để giảm thiểu bất kỳ sự đánh đổi nào về bảo mật và phân quyền đã trở thành trọng tâm trong cộng đồng Ethereum.
Người sáng lập Ethereum, Vitalik Buterin (Tham khảo) đã bắt đầu ủng hộ " rollups " như là cách để mở rộng Ethereum cùng tính năng bảo mật trong chu kỳ tăng trưởng tiếp theo vào tháng 9 năm 2018. Rollups là các lớp thực thi tồn tại bên trên mạng layer 1. Nó thực thi loạt xử lý (batch) và xâu chuỗi (sequence) các giao dịch trong môi trường off-chain (ngoài chuỗi) trước khi nhúng lại vào chuỗi khối cơ bản. Vì lớp cơ sở đóng vai trò như “người phán xử - arbiter of truth”, nên các rollup được xây dựng trên đó đã "kế thừa các thuộc tính bảo mật của blockchain mà chúng được tạo nên”.
Rollups có hai dạng: zero-knowledge (ZK) rollups và optimistic rollups.
ZK rollups sử dụng các bằng chứng phức tạp để xác nhận gần như tức thì trạng thái cuối cùng trên layer 2 đến Ethereum layer 1. Một số bản ZK rollups dành riêng cho ứng dụng đặc biệt đã được phát hành, bao gồm Loopring DEX, Immutable X (Gods Unchained) và protocol phái sinh dYdX.
Optimistic rollups giả định “một cách lạc quan” rằng tất cả các giao dịch đều hợp lệ. Tuy nhiên, xác nhận giao dịch trên mạng chính (main chain) phải thông qua giai đoạn thử thách nhằm ngăn chặn gian lận. Việc rút các token từ một Optimistic Ethereum DApp thường phải có độ trễ nhất định (liên quan đến các ZK rollup) nhằm cho phép việc kiểm tra được diễn ra. Nơi mà các optimistic rollups trước đây khác với các bản sao zero-knowledge ở khả năng sẵn sàng hỗ trợ các môi trường ứng dụng tương thích với EVM (EVM- compatible). Khả năng tương thích EVM cho phép các nhà phát triển chuyển qua các hợp đồng Solidity hiện có của họ từ Ethereum với những thay đổi tối thiểu. Dường như khoảng cách giữa optimistic và ZK rollup đang thu hẹp lại, như Matter Labs’ ZKSync và Starkware đang rút ngắn khả năng tính toán với EVM trong các ZK rollup.
Metis Layer 2
Metis sẽ là một thành viên mới trong gia đình optimistic rollups tương thích với EVM được ra mắt trong những tháng tới. Nó sử dụng một nhánh của Optimism’s Optimism Virtual Machine (OVM) gọi là Metis Virtual Machine (MVM). MVM mang hơi hướng của OVM trong thực thi hàm và code.
Giống như các thiết kế optimistic rollup khác, Metis dựa vào các thành phần mạng theo thứ tự để ra lệnh và thực thi loạt giao dịch trước khi gửi các thay đổi trạng thái MVM sau cùng cho Ethereum. Tuy nhiên, không như những loại tiền điện tử khác, Metis dự định ra mắt các multiple sequencer được gộp lại thành các thực thể on-chain gọi là Decentralized Autonomous Companies (DACs). Với mỗi block Metis, protocol sẽ chọn ngẫu nhiên một chuỗi từ chuỗi DAC để đẩy các thay đổi trạng thái đến Ethereum. Quy trình lựa chọn và nhóm các chuỗi Metis tương phản với cách tiếp cận trình tự đơn lẻ (single-sequencer approach) mà Arbitrum và Optimism sử dụng ban đầu. Tuy nhiên, cả Arbitrum và Optimism đều đã hoạch định lộ trình dân chủ hóa cách thức lựa chọn sequencer.
Các DAC về cơ bản cũng là các DAO. Metis đại diện cho các tổ chức on-chain cho phép người dùng cộng tác và thực hiện một số hành động mạng nhất định (Tham khảo), chẳng hạn như chạy sequencer pool (như mô tả ở trên) hoặc chạy một ứng dụng mới trên MVM. Để đủ điều kiện xác nhận một loạt giao dịch, các sequencer phải stake METIS nhiều hơn Dynamic Bond Threshold (DBT), đóng vai trò như một cơ chế cần thiết để ngăn chặn các sequencer khỏi các hành vi gian lận độc hại và vô tâm (Tham khảo).
Người dùng cũng có thể tham gia như một “Kiểm lâm - Ranger” để kiểm soát hoạt động sequencer. Ranger lấy mẫu một số block và xác thực trạng thái gốc để đổi lấy phần thưởng token METIS. Khi thử thách hoàn thành (được gọi là bằng chứng gian lận) dẫn đến việc cắt sequencer. Những tài sản bị cắt ra này được chuyển cho Ranger, người khởi xướng quá trình tranh chấp. Trái lại, các thử thách thất bại lặp lại nhiều lần của Ranger có thể bị hệ thống cấm (ban).
Nguồn: Metis Whitepaper.
Quá trình thử thách rất quan trọng đối với chức năng của optimistic rollups. Optimistic rollups được thiết kế một cách “lạc quan”, khi giả định rằng không có giao dịch gian lận nào diễn ra. Về cơ bản, họ sử dụng cách tiếp cận “vô tội cho đến khi được chứng minh là có tội - innocent until proven guilty” phụ thuộc vào hệ thống “kiểm tra và số dư - checks and balances” để ngăn chặn gian lận và đảm bảo Ethereum luôn là trọng tài của sự thật. Tất cả các phát hiện gian lận trên Metis đều xảy ra nhờ hoạt động kiểm tra sequencer của Rangers và thách thức bất kỳ hành vi sai trái nào.
Trong khi Metis sử dụng một nhánh của Optimism’s OVM, nó có một vài đặc điểm nhằm cải thiện thiết kế ban đầu. Các tính năng này bao gồm:
1. Tích hợp IPFS - Một lựa chọn lưu trữ dữ liệu rẻ hơn so với sử dụng giải pháp thứ cấp
2. Xác thực nhanh hơn khi đưa ra các thay đổi trạng thái đối với Ethereum nhờ đóng góp của Rangers
3. Phần mềm trung gian Polis (Polis Middleware) - Cung cấp các thư viện mẫu và hỗ trợ nhằm cải tiến môi trường phát triển hướng mục tiêu đến các nhà phát triển mới làm quen với tiền điện tử
4. Lớp thực thi đa tầng (Multiple Execution Layers) - Metis sẽ cho phép các DAC tạo ra các môi trường thực thi MVM mới để mở rộng dung lượng khi nhu cầu block space tăng lên
5. Môi trường Permissioned - DAC có thể tùy chỉnh các điều khiển truy cập cho các phiên bản MVM của riêng mình
Tích hợp IPFS
Lưu trữ dữ liệu trên Ethereum và Bitcoin rất tốn kém do giới hạn block space. Metis bảo lưu không gian trên chuỗi bằng cách cho phép mỗi DAC chạy một phiên bản MVM riêng biệt với lớp lưu trữ tích hợp sử dụng Interplanetary File Service (IPFS). Người dùng và nhà phát triển có thể truy cập nội dung từ Metis thông qua trình phân giải IPFS của MVM.
Nguồn: Metis Whitepaper.
Lưu trữ và truy cập dữ liệu theo cách này có hai lợi ích tiềm năng. Đầu tiên, dữ liệu có thể được mã hóa trong Metis protocol, cho phép người dùng lưu trữ thông tin bí mật. Thứ hai, IPFS Resolver cho phép các ứng dụng Metis truy cập và liên kết trực tiếp đến dữ liệu được lưu trữ, chẳng hạn như tác phẩm nghệ thuật hoặc âm nhạc dưới nền tảng NFT.
Xác thực nhanh hơn với Rangers
Nhược điểm chính của optimistic rollups là thời gian chờ đợi xác nhận rút tiền trở lại Ethereum layer 1 (hoặc thậm chí là layer 2 khác). Thời gian chờ đợi này thường được tính bằng ngày. Arbitrum dự đoán rằng việc rút tiền có thể mất khoảng ba ngày, trong khi thời gian dự kiến của Optimism là khoảng một tuần. Thời gian chờ đợi này rất cần thiết cho quá trình phát hiện gian lận, nhưng chúng cũng có thể làm giảm tính linh hoạt cho người dùng và tạo ra xung đột khi cố gắng chuyển tiền sang Ethereum hoặc giữa các L2 khác nhau.
Hệ thống phát hiện gian lận multi-party (đa bên) của Metis có thể cho phép rút ngắn thời gian xác nhận thay đổi trạng thái từ vài ngày xuống còn vài giờ. Như đã đề cập ở trên, Metis chọn ngẫu nhiên một sequencer mới cho mỗi block và dựa vào một nhóm nodes (Rangers) để theo dõi hoạt động của sequencer. Các sequencer được khuyến khích tài chính để tránh đưa ra các thay đổi trạng thái gian lận (bị bắt dẫn đến mất các METIS đã stake) và Rangers nhận được phần thưởng tài chính nhờ phát hiện được gian lận. Trong khi các hệ thống single-party sequencer như Optimisms và Arbitrum (khi khởi chạy) sẽ cần thời gian rút tiền tính theo ngày, đội ngũ Metis khẳng định hệ thống kiểm tra và số dư multiple layers của họ cho phép thời gian rút tiền chỉ còn khoảng sáu giờ. Metis phải đảm bảo có được một bộ sequencers và Rangers mạnh mẽ khi ra mắt để đạt được mục tiêu là thời gian chờ rút tiền chỉ còn sáu giờ.
Polis
Một yếu tố quan trọng có thể ảnh hưởng đến việc áp dụng L2 là thách thức trong việc chuyển các hợp đồng hiện có từ Ethereum sang một layer mới. Nếu các nền tảng yêu cầu dự án phải thích nghi đáng kể với các hợp đồng hiện tại, có thể trở nên khan hiếm khả năng ứng dụng, vì đa số dự án được phát triển trong môi trường hạn chế kiểm tra và đại tu codebase. Thay vào đó, các nhà phát triển sẽ nhắm đến các mục tiêu quen thuộc, nghĩa là phải tối đa hóa khả năng tương thích với EVM.
Metis đã áp dụng một thiết kế tương thích với EVM. Họ tiếp tục tìm cách chuyển đổi dễ dàng sang layer 2 cho các ứng dụng Ethereum hiện có thông qua phần mềm trung gian Polis (Polis middleware). Nhóm Metis dự định Polis sẽ giúp thu hẹp khoảng cách từ Web2 đến Web3 (Tham khảo) bằng cách cung cấp cho các nhà phát triển các mẫu “low-to-no-code” để triển khai và quản lý các ứng dụng mới. Sự kết hợp giữa phí thấp và sự thân thiện với developers sẽ mang lại môi trường màu mỡ cho các thử nghiệm và đổi mới, là những yếu tố quan trọng để xây dựng một hệ sinh thái ứng dụng từ đầu.
Mặc dù áp dụng EVM là một bước đột phá tuyệt vời (ngày càng tăng, và cần thiết), chiến lược này cũng có nghĩa là Metis sẽ trực tiếp cạnh tranh với mọi giải pháp EVM tương thích hệ thống layer 1 và giải pháp layer 2. Sử dụng một VM khác là một canh bạc vì thu hút sự quan tâm của nhà phát triển đối với một ngôn ngữ và bộ công cụ mới là một nỗ lực lớn và thường tốn kém. Nhưng canh bạc đó có thể rất đáng tiền để thực hiện nếu VM mới đủ sức hút vì các nhà phát triển không thể dễ dàng chuyển sang một giải pháp mới và hào nhoáng hơn. Việc cá nhân hóa sản phẩm tạo nên chất keo kết dính ngăn chặn sự chảy máu nhân lực hoặc tính thanh khoản sang các nền tảng cạnh tranh.
Tokenomics
Token METIS lần đầu tiên được phân phối trong Initial DEX Offering (IDO) thông qua PAID Network và Initial Exchange Offering (IEO) với Gate.io vào ngày 13 tháng 5 năm 2021. Sau khi ra mắt với giá IDO là 5 USD, METIS đã nhanh chóng phi lên 8 USD. Sau đó, giá giữ vững trong ba tháng quanh mức 5 USD, trước khi tăng lên mức cao mới trong bối cảnh thị trường phục hồi gần đây.
Token METIS có ba trường hợp sử dụng chính trong nền tảng Metis ’L2:
1. Phí giao dịch - Người dùng thanh toán phí giao dịch trong METIS
2. Staking các DAC - những người đóng góp DAC phải stake METIS để trở thành một sequencer, cộng tác hoặc khởi chạy một layer MVM mới
3. Khuyến khích - Các DAC và Ranger nhận được phần thưởng của METIS vì đã đóng góp và chiến thắng các thử thách gian lận. Những người tham gia này cũng có thể mất METIS nếu họ bị phát hiện hành động sai các quy tắc của protocol.
Metis đã phân bổ 49,3% (hay 4,93 triệu METIS) cho các sáng kiến cộng đồng (airdrop và khuyến khích sự tham gia của cộng đồng), các thị trường như trao đổi phi tập trung để có đủ thanh khoản giao dịch, những người đóng góp sớm (nhà đầu tư công và tư), đội nhóm và Quỹ MetisLab. Các đội nhóm, quỹ và nhà đầu tư cá nhân phải tuân theo lịch trình kiểm tra 12-18 tháng, khiến METIS có tỷ lệ thả nổi tương đối thấp ngay từ đầu.
Dự án đã dành 5,07 triệu tokens còn lại cho chương trình ưu đãi mười năm để thưởng cho những người tham gia mạng lưới như sequencers, Rangers và các thành viên cộng đồng để xử lý các giao dịch (một quy trình mà Metis gọi là “Transaction Mining”).
Lịch trình lạm phát của METIS là động lực để cung cấp bảo mật và tránh gian lận. Nhưng một khía cạnh thường bị bỏ qua của token là tác động của nó đối với tốc độ đổi mới và áp dụng của một dự án. Token incentives, ngay cả khi lạm phát, vẫn có thể khởi động hệ sinh thái và tăng trưởng lượng người dùng, đã thể hiện qua sự gia tăng nhanh chóng của Polygon. Đội ngũ Polygon đã sử dụng nguồn cung MATIC của mình để thưởng cho người xác nhận và các nhà cung cấp thanh khoản sau này trên Aave và Curve.
Toàn cảnh Layer 2 sẽ là một thực thể có tính cạnh tranh cao và các dự án có thể vượt khỏi tầm nhìn của công chúng (và rất khả thi) sử dụng mọi lợi thế theo ý mình. Sở hữu token có thể là một lợi thế cạnh tranh vì Arbitrum, Optimism và StarkWare đều chưa chia sẻ chi tiết rõ ràng về token gốc của họ (đến hiện tại vẫn chưa).
Tiến độ dự án
Với việc Optimistic Ethereum (OE) và Arbitrum sắp ra mắt đầy đủ, Metis hiện đang ở đâu? Metis đang lên kế hoạch cho một testnet cộng đồng vào tháng 9 và bản phát hành mainnet vào tháng 10.
Bối cảnh cạnh tranh của layer 2 đang phát triển nhanh chóng. Uniswap v3 đã vận hành trên OE và sẽ triển khai tới Aribitrum. Seasoned DeFi veteran Synthetix đã chạy trên OE từ cuối tháng Bảy. Arbitrum cho biết họ đã cấp cho “hơn 400 dự án mainnet và hàng chục dự án đã hoàn tất triển khai”. Optimism và Arbitrum đã đi đầu trong triển khai ứng dụng, Metis sẽ cần nhanh chóng đưa vào hệ sinh thái của mình khi ra mắt. MetisSwap, một nhánh của Uniswap v2, đang hoạt động trên Metis ’testnet và WOWswap đã cam kết có thêm một leveraged token trading protocol. Mặc dù mọi mạng lưới mới đều yêu cầu các yếu tố tài chính đầu vào, nhưng sự hiện diện trên thị trường của Metis khác xa so với hoạt động phát triển từng thấy trên Optimism và Arbitrum.
Metis đang lên kế hoạch thúc đẩy hệ sinh thái ứng dụng của mình thông qua Chương trình Phát triển Hệ sinh thái (Ecosystem Development Program). Các nhà phát triển phải có một dự án đang hoạt động, một cộng đồng sẵn có hoặc có ý tưởng cùng đội ngũ tuyệt vời để giành được tài trợ cho hệ sinh thái. Metis sẽ tạo điều kiện giới thiệu các VC, hỗ trợ kỹ thuật, xây dựng thị trường và phát triển cộng đồng, cũng như thưởng METIS cho những ứng viên thành công.
Roadmap
Cùng với sự phát triển liên tục của các công cụ phần mềm trung gian Polis (Polis middleware tools), Metis tập trung vào việc khuyến khích phát triển hệ sinh thái cho việc hoàn tất ra mắt mainnet vào tháng 10. Metis đã thiết lập các mối quan hệ với DeFi, cơ sở hạ tầng và các đối token launchpad, bao gồm Trustee Wallet, OroPocket OpenDeFi, PARSIQ, PAID Network và nhiều đối tác khác.
Thử thách phía trước
Hiệu ứng mạng lưới là động lực chi phối khối lượng on-chain, và các đối thủ cạnh tranh tầm cỡ như Optimism và Arbitrum cũng như layer 1 ví dụ như Solana và Terra có hệ sinh thái đang phát triển, với các dự án DeFi và Metaverse quy mô lớn đã được thiết lập hoặc dần thành hình. ZK rollups cũng đang phát triển nhanh chóng từ các giải pháp DApp cụ thể ban đầu như Loopring và dYdX. Immutable X có kế hoạch hỗ trợ cuộc chơi thứ hai, đưa nó tiến gần hơn mục tiêu trở thành một hệ sinh thái metaverse. zkSync và StarkWare có ZK-rollups tương thích EVM (EVM- compatible ZK-rollups) trong testnet.
Sự cạnh tranh chỉ đang bắt đầu, và Metis phải thực hiện cam kết của mình là cải thiện trải nghiệm optimistic rollup thông qua các cải tiến về tính linh hoạt và trải nghiệm người dùng được đề xuất. Nếu Metis có thể thúc đẩy một hệ sinh thái ứng dụng thông qua chương trình token incentives, nó có thể tạo ra các hiệu ứng mạng mà bất kỳ layer 2 nào cũng cần để tồn tại.
Các nhà phát triển và người dùng đang chuyển từ web2 sang web3 và sẽ chỉ tăng tốc từ đây, khi thị trường đủ lớn để mọi dự án có thể tiến hành. Đến lúc các dự án và cơ sở hạ tầng đủ sức tạo sự cách biệt với các đối thủ cạnh tranh gần nhất thì họ sẽ trở thành những người tiên phong mở ra ranh giới tiếp theo của Internet.
Tham gia thảo luận về Cryptocurrency tại nhóm FXCE Crypto.
Đính kèm
- 965.2 KB Xem: 0