Sử dụng phương pháp tiếp cận chu kỳ kinh doanh đối với đầu tư vào lĩnh vực vốn cổ phần

L
libra24hproject
Bình luận: 0Lượt xem: 111
L

libra24hproject

Thành viên
  • L

    libra24hproject

Hiểu về chu kỳ kinh doanh.
Chu kỳ kinh doanh (Business Cycle), hay còn gọi là chu kỳ kinh tế (Economic Cycle) là quá trình biến động của nền kinh tế qua các giai đoạn có tính lặp. Nói cách khác, chu kì kinh doanh mô tả sự tăng giảm sản lượng hàng hóa và dịch vụ trong một nền kinh tế. Các chu kì kinh doanh thường được đo lường bằng cách sử dụng mức tăng và giảm của GDP.

Các giai đoạn của chu kỳ kinh doanh.
Mặc dù các sự kiện hoặc cú sốc kinh tế vĩ mô không lường trước được đôi khi có thể phá vỡ một vài xu hướng, nhưng nhìn chung một chu kỳ kinh tế sẽ có 4 giai đoạn:
  • Giai đoạn đầu chu kỳ: Nhìn chung, sự phục hồi mạnh mẽ sau suy thoái, được đánh dấu bằng sự chuyển hướng từ tăng trưởng âm sang dương trong hoạt động kinh tế (ví dụ: tổng sản phẩm quốc nội, sản xuất công nghiệp tăng, thất nghiệp giảm). Điều kiện tín dụng ngừng thắt chặt nhằm tạo môi trường lành mạnh để mở rộng biên độ và tăng trưởng lợi nhuận nhanh chóng. Hàng tồn kho của doanh nghiệp ở mức thấp, trong khi tăng trưởng doanh số bán hàng được cải thiện đáng kể.
  • Giai đoạn giữa chu kỳ: Thường là giai đoạn dài nhất của chu kỳ kinh doanh. Giai đoạn giữa chu kỳ được đặc trưng bởi tốc độ tăng trưởng dương nhưng vừa phải hơn so với giai đoạn đầu chu kỳ. Hoạt động kinh tế lấy đà, tăng trưởng tín dụng trở nên mạnh mẽ và khả năng sinh lời tốt trong bối cảnh chính sách tiền tệ hỗ trợ - mặc dù ngày càng trung lập - Hàng tồn kho và doanh số bán hàng tăng lên, đạt đến trạng thái cân bằng tương đối với nhau.
  • Giai đoạn cuối chu kỳ: Thường trùng với thời điểm hoạt động kinh tế đạt đỉnh, ngụ ý rằng tốc độ tăng trưởng vẫn dương nhưng chậm lại. Một giai đoạn cuối chu kỳ điển hình có thể được coi là giai đoạn quá nóng của nền kinh tế khi năng lực bị hạn chế, dẫn đến áp lực lạm phát gia tăng. Mặc dù tỷ lệ lạm phát không phải lúc nào cũng cao, áp lực lạm phát gia tăng và thị trường lao động thắt chặt có xu hướng làm giảm tỷ suất lợi nhuận và dẫn đến chính sách tiền tệ chặt chẽ hơn.
  • Giai đoạn suy thoái: Thể hiện sự thu hẹp trong hoạt động kinh tế. Lợi nhuận doanh nghiệp giảm và tín dụng khan hiếm đối với tất cả các tác nhân kinh tế. Chính sách tiền tệ trở nên nới lỏng hơn và hàng tồn kho giảm dần mặc dù mức doanh số thấp, tạo điều kiện cho sự phục hồi tiếp theo.


Đầu tư vào lĩnh vực vốn cổ phần bằng phương pháp tiếp cận chu kỳ kinh doanh.
Phương pháp tiếp cận chu kỳ kinh doanh đối với đầu tư vào lĩnh vực vốn cổ phần liên quan đến việc phân tích các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế hoạt động như thế nào trong các giai đoạn khác nhau của chu kỳ kinh tế.
Mỗi giai đoạn đưa ra những cơ hội và rủi ro khác nhau cho các nhà đầu tư vốn cổ phần và hiểu được những điều này có thể giúp các nhà đầu tư đưa ra quyết định đầu tư sáng suốt hơn.
  • Giai đoạn đầu chu kỳ.
Giai đoạn đầu chu kỳ có hiệu suất tuyệt đối cao nhất. Trên cơ sở tương đối, các lĩnh vực thường được hưởng lợi nhiều nhất từ bối cảnh lãi suất thấp.
Cụ thể, các lĩnh vực nhạy cảm với lãi suất — chẳng hạn như hàng tiêu dùng tùy ý, tài chính và bất động sản sẽ hoạt động tốt hơn. Những lĩnh vực này hoạt động tốt, một phần là do các ngành này thường được hưởng lợi từ việc tăng vay nợ, bao gồm tài chính đa dạng và các ngành liên quan đến người tiêu dùng như ô tô và đồ dùng lâu bền trong gia đình tùy ý người tiêu dùng.

  • Giai đoạn giữa chu kỳ.
Khi nền kinh tế vượt qua giai đoạn phục hồi ban đầu và khi tốc độ tăng trưởng vừa phải, hiệu suất hoạt động của các lĩnh vực nhạy cảm với lãi suất thường giảm dần.
Tại thời điểm này của chu kỳ, các ngành nhạy cảm về kinh tế vẫn hoạt động tốt, nhưng sự tăng trưởng mạnh hơn sẽ chuyển sang một số ngành khác. Công nghệ thông tin là lĩnh vực hoạt động tốt nhất trong tất cả các lĩnh vực trong giai đoạn này, có một số ngành nhất định — chẳng hạn như chất bán dẫn và phần cứng—thường lấy đà khi các công ty có thêm niềm tin vào sự ổn định của quá trình phục hồi kinh tế và sẵn sàng chi tiêu vốn hơn. Ngoài ra, sức khỏe, y tế và các mặt hàng chủ lực của người tiêu dùng cũng là những ngành được cho rằng sẽ phát triển tốt trong giai đoạn này.

  • Giai đoạn cuối chu kỳ
Giai đoạn cuối chu kỳ kéo dài trung bình khoảng một năm rưỡi và hiệu quả hoạt động chung của thị trường chứng khoán đạt trung bình 5% trên cơ sở hàng năm. Khi quá trình phục hồi kinh tế chín muồi và áp lực lạm phát gia tăng, ngành năng lượng thường hoạt động tốt. Ở những nơi khác, khi các nhà đầu tư bắt đầu nhận thấy những dấu hiệu của sự suy giảm kinh tế, các lĩnh vực định hướng phòng thủ— những lĩnh vực mà doanh thu gắn liền với nhu cầu cơ bản hơn và ít nhạy cảm hơn về kinh tế —thường hoạt động tốt. Chúng bao gồm các mặt hàng chủ lực và tiện ích của người tiêu dùng. Ngoài ra, các nhà đầu tư có thể muốn xem xét thêm khả năng tiếp xúc với các khoản đầu tư có thu nhập cố định, chẳng hạn như trái phiếu, vì những khoản này có xu hướng hoạt động tốt khi nền kinh tế đang gặp khó khăn.
Các cổ phiếu của công ty công nghệ thông tin và tiêu dùng tùy ý thường bị tụt hậu nhất, có xu hướng bị ảnh hưởng nhiều nhất trong giai đoạn này, do áp lực lạm phát làm giảm tỷ suất lợi nhuận và các nhà đầu tư rời khỏi các khu vực nhạy cảm nhất về kinh tế. Lĩnh vực dịch vụ truyền thông trước đây hoạt động kém hiệu quả trong giai đoạn cuối của chu kỳ, nhưng sự kết hợp giữa các ngành đang phát triển của ngành khiến người ta ít tin tưởng hơn vào sự bền bỉ của mô hình này trong tương lai.

  • Giai đoạn suy thoái
Giai đoạn suy thoái trong lịch sử là giai đoạn ngắn nhất, kéo dài trung bình chưa đến một năm một chút—và thị trường bắt đầu hoạt động kém trong giai đoạn này.
Khi tăng trưởng kinh tế bị đình trệ và thu hẹp lại, các lĩnh vực nhạy cảm hơn về kinh tế không còn được ưa chuộng và những lĩnh vực có định hướng phòng thủ sẽ di chuyển lên phía trước của đường hiệu suất. Những ngành ít nhạy cảm về kinh tế này, bao gồm các mặt hàng thiết yếu của người tiêu dùng, tiện ích và chăm sóc sức khỏe, bị chi phối bởi các ngành sản xuất các mặt hàng như kem đánh răng, điện và thuốc theo toa, những ngành mà người tiêu dùng ít có khả năng cắt giảm trong thời kỳ suy thoái. Lợi nhuận của các ngành này có thể sẽ ổn định hơn so với lợi nhuận của các ngành khác trong thời kỳ nền kinh tế suy thoái. Lĩnh vực hàng tiêu dùng thiết yếu có thành tích hoàn hảo vượt trội so với thị trường rộng lớn hơn trong toàn bộ giai đoạn suy thoái, trong khi các tiện ích và chăm sóc sức khỏe thường xuyên vượt trội. Tỷ suất cổ tức cao cũng đã giúp các lĩnh vực này trụ vững tương đối tốt trong thời kỳ suy thoái.
Mặt khác, các lĩnh vực kinh tế và nhạy cảm với lãi suất — chẳng hạn như tài chính, công nghiệp, công nghệ thông tin và bất động sản — thường hoạt động kém hơn so với thị trường rộng lớn hơn trong giai đoạn xuống dốc của thị trường.

Lưu ý khi sử dụng chu kỳ kinh doanh khi đầu tư.
Điều quan trọng cần nhớ là chu kỳ kinh doanh không phải lúc nào cũng có thể dự đoán được và các điều kiện kinh tế có thể thay đổi nhanh chóng. Do đó, các nhà đầu tư nên thường xuyên theo dõi các chỉ số kinh tế và điều chỉnh phân bổ ngành của họ cho phù hợp. Ngoài ra, việc đa dạng hóa giữa các lĩnh vực và loại tài sản khác nhau có thể giúp giảm thiểu rủi ro và mang lại chiến lược đầu tư dài hạn ổn định hơn.

Nguồn: Libra24h.com
 

Đính kèm

Xem nhiều nhất
Bên trên