Elliott Wave Theory (EWT)

Benjamin
Benjamin
Bình luận: 0Lượt xem: 4,270
Benjamin

Benjamin

Dân làm báo
  • Benjamin

    Benjamin

- Lý thuyết sóng Elliott (“EWT”) được đặt theo tên của Ralph Nelson Elliott.
- Đó là một phương pháp phân tích kỹ thuật dựa trên tâm lý đám đông.
- Lấy cảm hứng từ Lý thuyết Dow và những quan sát được tìm thấy trong tự nhiên, Elliott kết luận rằng chuyển động của thị trường chứng khoán có thể được dự đoán bằng cách quan sát và xác định một mô hình sóng lặp đi lặp lại.
- Elliott tin rằng thị trường có xu hướng tuân theo một mô hình lặp lại do tâm lý đám đông thúc đẩy.
- Bất kể những thay đổi diễn ra trong điều kiện thị trường, nghiên cứu của Elliott cho thấy rằng các nhà đầu tư cuối cùng vẫn lặp đi lặp lại cùng một chu kỳ bùng nổ và phá sản.
- Trên thực tế, Elliott tin rằng tất cả các hoạt động của con người, không chỉ thị trường chứng khoán, đều bị ảnh hưởng bởi chuỗi sóng có thể xác định này.
- Với sự giúp đỡ của CJ Collins, ý tưởng của Elliott đã nhận được sự chú ý của Phố Wall trong một loạt bài báo đăng trên tạp chí Thế giới Tài chính năm 1939.
- Trong những năm 1950 và 1960 (sau khi Elliott qua đời), công việc của ông đã được Hamilton Bolton nâng cao. Năm 1960, Bolton viết Nguyên lý sóng Elliott – Một đánh giá quan trọng.
- Năm 1978, Robert PrechterAJ Frost hợp tác viết cuốn sách Nguyên lý sóng Elliott.
- Ngày nay, Robert Prechter dẫn dắt một thế hệ mới được gọi là “Ellioticians”, áp dụng lý thuyết vào thị trường tài chính.
- Các học viên nổi tiếng bao gồm Prechter, Jack Schwager và tỷ phú Paul Tudor Jones.

Lý thuyết sóng Elliott hoạt động như thế nào?
- Các lực lượng cơ bản đằng sau Lý thuyết sóng Elliott là xây dựng và phá bỏ.
- Dưới đây là các khái niệm cơ bản của Lý thuyết sóng Elliott:
  • Hành động được theo sau bởi một phản ứng.
  • Có năm sóng theo hướng của xu hướng chính, theo sau là ba sóng điều chỉnh (Bước “5-3”).
  • Bước 5-3 hoàn thành một chu kỳ. Bước 5-3 này sau đó trở thành hai phần nhỏ của làn sóng 5-3 cao hơn tiếp theo.
  • Mô hình 5-3 cơ bản không đổi, mặc dù khoảng thời gian của mỗi mô hình có thể khác nhau.
- Mẫu cơ bản được tạo thành từ tám sóng (năm sóng lên và ba sóng xuống) được dán nhãn 1, 2, 3, 4, 5, a, b và c.

1607500748915.png
  • Sóng 1, 3 và 5 được gọi là sóng đẩy .
  • Sóng 2 và 4 được gọi là sóng điều chỉnh.
  • Các sóng a, b và c điều chỉnh xu hướng chính do các sóng từ 1 đến 5 tạo ra.
- Các xu hướng chính được tạo thành bởi các sóng từ 1 đến 5 và có thể lên hoặc xuống.
- Sóng a, b, c luôn chuyển động ngược hướng với sóng từ 1 đến 5.
- Lý thuyết sóng Elliott hiểu rằng tâm lý công chúng di chuyển theo 5 sóng trong một xu hướng chính và 3 sóng trong một xu hướng ngược lại.
- Sự điều chỉnh của xu hướng đến từ tâm lý con người thay vì quan niệm là do tin tức gây nên.

Sóng trong sóng:
- Lý thuyết sóng Elliott cho rằng mỗi sóng đều chứa các sóng nhỏ hơn chứa đầy đủ bước sóng 5-3 của một chu kỳ nhỏ hơn.
  • Số lượng sóng dài nhất được gọi là Grand Supercycle. Sóng Grand Supercycle bao gồm Supercycles và Supercycles bao gồm nhiều chu kỳ.
  • Quá trình này tiếp tục thành các sóng Sơ Cấp, Trung Cấp, Minute, Minuette và Sub Minuette.
- Biểu đồ sau đây cho thấy cách các sóng 5-3 bao gồm các chu kỳ nhỏ hơn.

1607500754986.png

- Biểu đồ này có cùng một mẫu hình được hiển thị trong biểu đồ trước, nhưng các chu kỳ nhỏ hơn cũng được hiển thị.
- Ví dụ: bạn có thể thấy rằng sóng đẩy 1 bao gồm năm sóng nhỏ hơn.
- Số Fibonacci cung cấp nền tảng toán học cho Lý thuyết sóng Elliott.
- Tóm lại, dãy số Fibonacci được tạo ra bằng cách bắt đầu từ 1 và cộng số trước đó để tạo số mới (tức là, 0 + 1 = 1, 1 + 1 = 2, 2 + 1 = 3, 3 + 2 = 5, 5 + 3 = 8, 8 + 5 = 13, v.v.).
- Mỗi chu kỳ Elliott bao gồm tổng số sóng nằm trong dãy số Fibonacci.
- Ví dụ: Sóng 1, 3 và 5 được tạo thành từ mô hình đẩy gồm 5 sóng nhỏ hơn trong khi Sóng 2 và 4 được tạo thành từ mô hình điều chỉnh gồm 3 sóng nhỏ hơn
- Phương pháp Elliott Wave sử dụng việc xác định số lượng sóng kết hợp với các số Fibonacci để dự đoán các chuyển động thị trường.
- Các học viên của Elliott Wave đều thống nhất rằng Grand Supercycle gần đây nhất bắt đầu vào năm 1932 và làn sóng thứ năm cuối cùng của chu kỳ này bắt đầu ở đáy thị trường vào năm 1982. Tuy nhiên, đã có nhiều sự khác biệt kể từ năm 1982.
- Nhiều người báo trước sự xuất hiện của vụ suy thoái tháng 10 năm 1987 là sự kết thúc của chu kỳ. Sự phục hồi mạnh mẽ sau đó đã khiến họ phải đếm lại số lượng sóng.
- Và điểm yếu của Lý thuyết sóng Elliott là Giá trị của dự đoán phụ thuộc vào số lượng sóng chính xác.
- Việc xác định nơi một sóng bắt đầu và một sóng khác kết thúc mang tính chủ quan.

- Elliott Wave đã được sử dụng thành công trên Phố Wall nhưng vẫn có một số người bác bỏ.
 
Bài viết liên quan
  • Dow Theory
  • Xem nhiều nhất
  • Gearing
  • Francoise Hollande
  • Scrypt
  • Bên trên